Cẩm nang du lịch Kon Tum chi tiết từ A đến Z
I. Giới thiệu tổng quan về tỉnh Kon Tum
Nằm ở phía Bắc Tây Nguyên, tỉnh Kon Tum được thiên nhiên ưu đãi với nhiều thắng cảnh đẹp. Đây còn là vùng đất có lịch sử lâu đời với truyền thống cách mạng hào hùng, ghi dấu ấn thành những di tích lịch sử được xếp hạng cấp Quốc gia. Tỉnh Kon Tum còn lưu giữ, bảo tồn nhiều giá trị văn hóa truyền thống độc đáo của đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên, tạo nên bức tranh sinh hoạt cộng đồng đa dạng, phong phú với nhiều phong tục, tập quán, tín ngưỡng đặc sắc…đã giúp Kon Tum trở thành một trong những điểm du lịch hấp dẫn không thể bỏ qua khi đến với Tây Nguyên.
Tọa lạc ngay bên dòng sông Đăk Bla thơ mộng, nơi được biết đến là cái nôi của dòng chảy văn hóa người Ba Na ở Kon Tum. Bảo tàng tỉnh chính là điểm đến hấp dẫn với những ai ham thích khám phá, tìm hiểu đất và người Kon Tum. Thành lập năm 1998, đến nay, Bảo tàng còn lưu giữ nhiều di chỉ khảo cổ học, tài liệu khoa học, công trình nghiên cứu về lịch sử, văn hóa, sự hình thành vùng đất Kon Tum từ thời tiền sử đến nay. Trong số hơn 1.800 hiện vật, tư liệu được trưng bày, nhiều hiện vật, bộ sưu tập được các chuyên gia trong và ngoài nước đánh giá cao như di chỉ khảo cổ học Lung Leng, bộ sưu tập chiêng và ghè độc đáo của đồng bào các dân tộc thiểu số trong tỉnh,… Đây là nguồn sử liệu chân thực, khẳng định Kon Tum là vùng đất có lịch sử văn hóa lâu đời, là một trong những địa bàn trọng yếu của nền văn minh nông nghiệp và luyện kim ở khu vực Tây Nguyên.
Xuôi về phía Bắc, dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh, có không ít những di tích lịch sử đã trở thành điểm nhấn nổi bật khi đến tham quan Kon Tum. Tiêu biểu như di tích Quốc gia đặc biệt chiến thắng Đăk Tô – Tân Cảnh. Mùa hè đỏ lửa năm 1972, tại nơi đây, quân và dân ta đã anh dũng chiến đấu, giành từng tấc đất, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Giờ đây, khi khói lửa chiến tranh đã lùi xa, nói về địa điểm chiến thắng Đăk Tô – Tân Cảnh là nói về một biểu tượng bất tử của tình đoàn kết các dân tộc, ý chí chiến đấu quật khởi của người Việt Nam trước kẻ thù xâm lược.
Đến với Kon Tum, du khách được trải nghiệm thiên nhiên hoang sơ với nhiều thắng cảnh đẹp. Trong đó, Khu du lịch sinh thái nghỉ dưỡng Măng Đen ở huyện Kon Plông được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chọn là 01 trong 31 khu vực có tiềm năng phát triển Khu du lịch chuyên đề Quốc gia.
Nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Kon Tum, huyện Kon Plông có khí hậu mát mẻ quanh năm với nhiệt độ trung bình từ 16 – 220C. Hệ sinh thái rừng trên địa bàn còn tương đối phong phú, đa dạng với nhiều động, thực vật quý hiếm. Cùng với đó là hệ sinh thái đất ngập nước có giá trị cao về thẩm mỹ và kinh tế như thác Pa Sỹ, thác Đăk Ke, hồ Toong Pô, Toong Đam, Toong Zơ Ri và hệ thống sông suối phân bố đều ở các xã… Với những lợi thế này, hiện nay, huyện Kon Plông đã đưa vào khai thác các loại hình du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch tâm linh…
Tọa lạc trên ngọn đồi cao, cách trung tâm huyện gần 03 km về phía Tây là quần thể chùa Khánh Lâm được xây dựng trên tổng diện tích khoảng 10 ha. Từ chân đồi theo lối cổng tam quan phía trước, bước thêm hơn 200 bậc đá sẽ thấy hiện ra Chánh điện chùa bề thế, uy nghiêm, yên tịnh giữa đại ngàn mây núi. Tại sân Chánh điện, trước hai dãy nhà Tây Lan và Đông Lan là sững sững 18 vị La Hán trong các dáng điệu, vẻ mặt khác nhau. Trước Chánh điện, chùa có Lầu chuông, Lầu trống, tượng Quan thế âm Bồ tát cao gần 20m và hồ sen đối xứng, tạo cảnh quan hài hòa, đẹp đẽ,… Từ lâu, nơi đây đã trở thành địa điểm du lịch tâm linh nổi tiếng của huyện Kon Plông.
Trở về thành phố Kon Tum, xuôi theo dòng sông Đăk Bla là trải dài nền văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số Kon Tum từ những ngày đầu lập làng, lập bản. Sâu dưới lớp trầm tích cát sỏi, ngoài những kiến tạo địa chất đo đếm được còn là tầng tầng, lớp lớp những văn hóa, sự chuyển mình của thời gian, bước ngoặt lịch sử thấm đẫm khúc ca bi tráng của sinh tồn, đấu tranh giữ nước, giữ đất, giữ làng, giữ cội nguồn dân tộc.
Kon Tum là mái nhà chung của các dân tộc bản địa gồm Ba Na, Xê Đăng, Ja Rai, Giẻ - Triêng, Brâu, Rơ Mâm và H’re. Góp một tiếng nói, thêm một lời ca, tất cả tạo thành bức tranh sinh hoạt cộng đồng đa dạng, đặc sắc nơi núi rừng Tây Nguyên; thể hiện qua phong tục, tập quán, hệ thống các lễ hội, kho tàng nghệ thuật dân gian, phương thức sản xuất, cách giao tiếp, ứng xử, sinh hoạt, cách biểu đạt mỹ cảm và các giá trị nhân sinh quan về vũ trụ, thần linh…
II. Phương tiện di chuyển khi đi du lịch Kon Tum
Để di chuyển đến tỉnh Kon Tum từ các địa phương khác, du khách có thể sử dụng các phương tiện như: máy bay, oto, xe máy hoặc xe đạp (cùng cung đường với xe máy).
Phương tiện đi Kon Tum từ TP. Hồ Chí Minh
Từ trung tâm TP. HCM bạn đi theo quốc lộ 13 hướng về Bình Dương qua thị xã Thuận An, băng qua quốc lộ DT 743, rẽ vào DT742 qua thị xã Tân Uyên (Bình Dương). Từ đây bạn chạy theo đường DT 741 đến thị xã Đồng Xoài (Bình Phước) thì gặp quốc lộ 14. Bạn cứ chạy thẳng men theo quốc lộ này sẽ gặp Đăk Nông, qua Buôn Mê Thuột (Đăk Lăk). Từ Buôn Mê Thuột, chạy theo hướng quốc lộ 14 khoảng 114km sẽ đến với địa phận tỉnh Gia Lai. Từ đây bạn đi qua thành phố Pleiku và chạy tiếp khoảng 105km sẽ đến được địa phận tỉnh Kon Tum. Quãng đường này tầm khoảng 571km.
Nếu đi vào thời điểm tháng 12, tháng 1 dương lịch bạn sẽ thấy dọc theo 2 bên đường quốc lộ 14 là màu vàng rực của hoa dã quỳ, sự đan xen của những cây thông lá kim, màu xanh bạt ngàn của cây cối, màu trắng của hoa cà phê nở sớm, những cánh rừng cao su tít tắp đuổi mãi tới chân trời. Bầu trời cao vời vợi, gió mát, thông reo… Tất cả chỉ khiến bạn muốn ở lại Tây Nguyên mà không trở về.
Từ thành phố HCM đi Kon Tum bằng oto sẽ có xe ghế ngồi và giường nằm cho bạn lựa chọn. Khoảng cách: 559 km. Thời gian di chuyển: 11 – 12 tiếng. Thời gian xuất phát: từ 16:00 – 4:30 mỗi ngày. Giá vé trung bình: khoảng 285.000đ/ lượt. Các nhà xe phục vụ tuyến đường này là: xe Minh Quốc, xe Việt Tân, xe Long Vân, xe Tây Nguyên, xe Tư Phầu, xe Việt Tân Phát, xe Đồng Tiến, xe Trường Giang, xe Nhật Tân, xe Phượng Thu Sài Gòn…
Hiện nay từ thành phố Hồ Chí Minh đi Kon Tum bạn sẽ hạ cánh tại sân bay Pleiku (Gia Lai), sau đó di chuyển tiếp khoảng 50km nữa tới Kon Tum bằng taxi hoặc xe bus (do tỉnh Kon tum chưa có sân bay). Có 4 chuyến bay/ ngày từ TP. HCM đi Kon Pleiku. Thời gian bay trung bình khoảng 1h05 phút. Mỗi ngày Viettnam Airlines có 2 chuyến, Vietjet và Jestar mỗi hãng 1 chuyến. Chuyến bay TP.HCM – Pleiku sớm nhất vào lúc 8:40 của hãng Jestar, muộn nhất là chuyến lúc 19h45 của hãng Vietnam Airlines. Riêng ngày thứ 7, Jestar sẽ đổi giờ bay lên 9:30. Vietnam Airlines có chuyến muộn nhất là vào lúc 9:35 vào các ngày từ thứ 3 đến chủ nhật.
III. Những điểm tham quan du lịch tại Kon Tum
Nhà thờ gỗ Chánh tòa Kon Tum – báu vật nằm giữa núi rừng Tây Nguyên bạt ngàn là một công trình kiến trúc tôn giáo rất độc đáo với tuổi đời lên đến hàng thế kỷ, là niềm tự hào bao đời nay của người dân Kon Tum.
Nhà thờ gỗ Kon Tum– cái tên dân dã mà người dân nơi đây vẫn thường gọi bởi công trình này được xây dựng hoàn toàn bằng gỗ cà chít. Đây được xem là di tích cổ kính và đẹp nhất của thành phố xinh đẹp này.
Thác Pa Sỹ nằm trong khu du lịch sinh thái văn hóa cộng đồng làng đồng bào dân tộc Kon Tu Rằng (còn gọi là khu Du lịch Thác Pa Sỹ), thuộc địa phận xã Măng Cành, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum. Đây là vùng đất gắn với truyền thuyết
“Bảy hồ, ba thác” của người dân trong vùng. Theo những câu chuyện truyền miệng của đồng bào Mơ Nâm, người dân vùng Măng Đen (tiếng Mơ Nâm là T’Măng Deeng) năm xưa phạm phải luật cấm của trời nên 7 ngôi làng chìm trong hố lửa rồi biến thành 7 hồ nước và 3 thác nước kỳ vĩ. Trong 3 ngọn thác Pa Sỹ, Đak Ke và Đak Pne, Pa Sỹ là ngọn thác lớn nhất của vùng đất này, được tạo thành từ 3 ngọn suối lớn nhất Măng Đen, trong đó có thác Pa Sỹ. Cái tên này là do người Kinh đọc chệch đi từ tên gốc Pau Suh của đồng bào bản địa nghĩa là 3 nguồn suối chụm lại 1 dòng.
Cầu treo Kon Klor thuộc địa phận làng Kon Klor, thị xã Kon Tum, chiếc cầu treo công nghiệp to đẹp nhất khu vực Tây Nguyên, nối liền hai bờ của dòng sông Đăk Bla, huyền thoại những dòng sông chảy ngược về Tây của đất Tây nguyên, chảy từ Quảng Ngãi về đến thuỷ điện Yaly, nối thị xã Kon Tum với vùng kinh tế mới.
Cầu có chiều dài 292m, rộng 4,5m, xây dựng vào ngày 3/2/1993 và hoàn thành ngày 1/5/1994, có màu vàng cam thật nổi bật trong cái nắng vàng oi ả. Dòng sông Đăk Bla mùa nắng trơ ra những hòn đá cuội bên lòng sông êm ả, hài hòa, bóng chiếc cầu uy nghi in dưới dòng nước phẳng lặng. Dưới cái nắng chiều tà từng đoàn xe bò chở đầy ắp những củ khoai mì vừa mới đươc thu hoạch trong ngày, những người nông dân vội vã trở về nhà sau một ngày lao động vất vả và bọn trẻ đang nô đùa trong làn nước mát lạnh, trong lành, tạo ra một không khí thanh bình của núi rừng Tây Nguyên.
Được ví như là mái nhà của miền Nam, dãy núi Ngọc Linh là khối núi cao nhất miền Nam Việt Nam, nằm trên dải Trường Sơn, là một phần của Trường Sơn Nam. Dãy núi Ngọc Linh nằm ở độ cao khoảng 300m - 2.600m. Vì thế, hệ núi này chứa đựng trong nó rất nhiều hình thái đa dạng đặc trưng của khí hậu vùng nhiệt đới.
Vườn quốc gia Chư Mom Ray được hình thành từ Khu bảo tồn thiên nhiên Chư Mom Ray với diện tích hơn 56.000ha. Điểm đến này cũng là vườn quốc gia duy nhất của Việt Nam tiếp giáp với hai nước láng giềng là Lào và Campuchia. Ngay cạnh Vườn quốc gia Chư Mom Ray là Vườn quốc gia Virachey của Campuchia và Khu bảo tồn Đông Nam Ghong của Lào. Diện tích rừng toàn bộ khu vực này vào khoảng 700.000ha tạo thành một khu bảo tồn rộng lớn xuyên quốc gia, có tầm quan trọng đặc biệt đối với bảo tồn đa dạng sinh học ở khu vực Đông Dương và Đông Nam Á.
Rừng thông Măng Đen được thiên nhiên ưu đãi với cảnh sắc đẹp như chốn tiên cảnh, cùng khí hậu mát mẻ đang trở thành điểm đến thu hút du khách. Với sự tương đồng về cảnh quan mà rừng thông Măng Đen được mệnh danh là “Đà Lạt thứ hai”.
Rừng thông Măng Đen thuộc thị trấn Măng Đen, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum. Khu du lịch sinh thái này cách trung tâm thành phố Kon Tum khoảng 54km và có tổng diện tích khoảng 140.000 ha. Măng Đen tọa lạc trên độ cao 1.200 m so với mực nước biển, khí hậu quanh năm mát mẻ và dễ chịu. Khu du lịch này sở hữu khung cảnh yên bình và trở thành điểm đến thu hút du khách ở khu vực Tây Nguyên.
7. Khu du lịch sinh thái Măng Đen
Măng Đen nằm ở độ cao hơn 1.200 m so với mực nước biển, khí hậu ôn đới, quanh năm mát mẻ, nhiệt độ trung bình từ 16-20 độ C, rừng nguyên sinh bao bọc, độ che phủ hơn 80% diện tích tự nhiên. Rừng nguyên sinh phủ kín khắp nơi, khí hậu mát mẻ quanh năm với nhiều thắng cảnh hồ, thác khiến du khách ngỡ lạc bước giữa "thiên đường nghỉ dưỡng" khi đến với Măng Đen (Kon Tum).
Vùng du lịch sinh thái quốc gia Măng Đen, huyện KonPlông (Kon Tum) từ lâu được du khách ví là thiên đường nghỉ dưỡng. Từ trung tâm TP Kon Tum, du khách có thể đi ôtô hoặc xe máy đi trên quốc lộ 24 về phía đông bắc 54 km.
Ngã ba Đông Dương huyền thoại là điểm tiếp giáp giữa 3 nước Việt Nam - Lào - Campuchia. Ngã ba này đã nằm trong ký ức không thể nào quên của bao lớp bộ đội, thanh niên xung phong trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ và đến ngày nay vẫn thu hút bao phượt thủ bởi câu chuyện thú vị một con gà gáy cả 3 nước đều có thể nghe.
Cột mốc Việt Nam - Lào - Campuchia làm bằng đá hoa cương, đặt trên đỉnh núi cao 1.086 m so với mực nước biển. Cột mốc cao 2m hình trụ tam giác, nặng gần 900kg là một trong hai cột mốc biên giới ghi danh ba quốc gia. 3 mặt của cột mốc huyền thoại lần lượt quay về phần lãnh thổ của mỗi quốc gia với hình quốc huy trang trọng.
9. Vườn hoa Kon Trang Long Loi
Vườn Hoa Long Loi, nằm tại thôn Kon Trang Long Loi cách trung tâm thị trấn Đăk Hà khoảng 2km. Với nét đặc trưng riêng về kiến trúc của một làng Bana nằm ven sông Pô Kô cùng với những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc vẫn đang được bảo tồn đã làm nên một điểm nhấn cho du lịch huyện Đăk Hà và là điểm đến thu hút khách du lịch trên khắp mọi miền.
Đến với Kon Trang Long Loi du khách không chỉ được ngắm cảnh đẹp và hít thở bầu không khí trong lành nơi đây mà còn được thưởng thức nét văn hóa ẩm thực truyền thống cùng các hoạt động văn hóa dân gian như: múa xoang, đánh cồng chiêng, hát dân ca, chế tác các nhạc cụ truyền thống, đan lát, dệt thổ cẩm...Ngoài ra du khách còn được trải nghiệm cảm giác đi thuyền trên lòng hồ thủy điện Plei Krong thơ mộng cùng các hoạt động trải nghiệm với sông nước như câu cá, thả lưới bắt tôm, đi thuyền độc mộc.
IV. Lễ hội truyền thống ở Kon Tum
Lễ hội cồng chiêng là một lễ hội được tổ chức hàng năm theo hình thức luân phiên tại các tỉnh có văn hoá cồng chiêng tại Tây Nguyên. Lễ hội được tổ chức nhằm quảng bá hình ảnh Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên đã được UNESCO công nhận là di sản truyền khẩu và phi vật thể nhân loại. Đó không những là một sự kiện quan trọng của người dân tây nguyên mà còn cả với đất nước Việt Nam. Trong lễ hội nghệ nhân của các tỉnh sẽ trình bày, biểu diễn không gian văn hoá của dân tộc và của tỉnh mình.
Ở Kon Tum, cùng với đàn T'rưng, Klông Pút, Đinh Túk, cồng chiêng là nhạc cụ đặc trưng nhất của đồng bào các dân tộc thiểu số bản địa. Ngoài vai trò là phương tiện diễn tấu dân gian, cồng chiêng còn thể hiện quyền uy, sự giàu sang của gia đình, dòng tộc, bản làng, là vật thiêng trong tín ngưỡng tâm linh của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Cồng chiêng và nghệ thuật diễn tấu cồng chiêng của đồng bào các dân tộc thiểu số Kon Tum khá đa dạng, phong phú. Đặc điểm chung, nổi bật của dàn cồng chiêng là sự kết hợp linh hoạt những âm thanh cao, thấp, tạo nên sự phối bè khác nhau. Kết hợp với cồng chiêng còn có cả trống, lục lạc... tạo nên sự hoà âm phong phú. Quyện hoà trong tiết tấu, giai điệu của cồng chiêng là những âm thanh nghe như giai điệu của rừng đại ngàn, của suối reo, thác chảy; lấp lánh sắc màu của nắng, của gió, của đất; là tâm hồn mộc mạc, chân thành, khoáng đạt của đồng bào các dân tộc thiểu số. Có bộ thì âm điệu trầm hùng, đĩnh đạc như là một sự giới thiệu về đại ngàn Kon Tum hùng vĩ, có bộ thì âm điệu lại réo rắt, nỉ non với những giai điệu, tiết tấu hòa quyện như những lời tự sự kể về những truyền thuyết, những câu chuyện về những dòng sông, con suối, cánh rừng, mùa màng, về đất và người Kon Tum…hết sức trữ tình bằng ngôn ngữ âm thanh vô cùng độc đáo, chỉ riêng có ở nghệ thuật diễn tấu cồng chiêng.
Lễ hội mừng lúa mới thường được tổ chức vào khoảng tháng 10 (âm lịch) khi lúa đã chín rộ. Tùy theo phong tục của từng làng mà lễ hội được tổ chức theo quy mô và hình thức khác nhau. Khi lúa bắt đầu chín, già làng thống nhất ngày tốt để chuẩn bị tổ chức nghi lễ mừng lúa mới. Các gia đình chủ động sửa sang nhà cửa, vật dụng trong nhà, người Xơ Đăng cho rằng làm như vậy để thần lúa khi từ rẫy về nhà sẽ không thấy không gian trở nên xa lạ.
Trong ngày này, người phụ nữ chuẩn bị các vật dụng thiêng dùng trong nghi lễ của gia đình, như: gùi thiêng, nồi nấu cơm cúng, dây sirh jrông hoặc dây chỉ (sirh prệh). Lễ mừng lúa mới bắt đầu với nghi thức bà con mang lễ vật gồm ghè rượu, cơm, thịt, ống nứa đi đến bến nước để lấy nước về với buôn làng mình cùng nhau ăn mừng lúa mới.
Lễ mừng lúa mới sẽ diễn ra tại mỗi gia đình và tiếp đó là tại nơi sinh hoạt cộng đồng của làng. Khi những bông lúa đã chín rộ, chủ hộ đưa các thành viên trong gia đình đến rẫy lúa của mình dọn cỏ, phát đuờng chuẩn bị thu hoạch lúa. Khi đến rẫy lúa, chủ hộ đến chỗ lúa chín đều nhất đọc lời khấn với ông Trời (Giàng), xin Thần Lúa (Na Soai) cho họ rước hồn lúa về với dân làng, với nhà của mình. Sau đó, cả gia đình bắt đầu công việc tuốt lúa. Tuốt lúa xong, họ đưa lúa về kho để cất giữ, mỗi gia đình chỉ mang một gùi lúa lớn về nhà để cúng lúa mới, trên đường mang lúa về nhà, khi gặp ngã ba, ngã tư, đường rẽ…họ bẻ một cành cây chắn ngang các lối đi phụ, chỉ để lại một lối đi chính từ kho lúa về nhà mình với suy nghĩ không để cho hồn lúa đi lạc lối khác.
Tại kho lúa của gia đình, người phụ nữ lấy cây đót đặt lên cầu thang và cửa kho, bà cất lúa vào kho, khấn thông báo với các thần linh biết gia đình mang lúa mới về kho, cầu mong hồn lúa khỏe mạnh, ở yên trong kho, không lạc mất, cầu mong thần linh phù hộ cho gia đình khỏe mạnh, no đủ quanh năm. Làm lễ xong, người phụ nữ tiếp tục mang số lúa còn lại vào nhà. Lúc này, một phần lúa được đặt trên giàn cúng, một phần lúa khác được đem rang lên.
Bữa cơm đầu mùa dâng cho thần linh với đại ý kính cáo với các thần về lễ ăn lúa mới, xin cho kho thóc đầy, xin cho thú rừng không phá mùa màng.... Thức ăn chuẩn bị trước của mỗi gia đình để ăn cơm mới gồm: thịt rừng, cá suối, rượu ghè. Họ bày mâm cơm, rượu ghè ra giữa nhà. Sau lời khấn của chủ hộ, chủ hộ sẽ nắm vắt cơm đầu tiên để ăn, uống rượu, tiếp đó, mọi người trong gia đình cùng ăn, uống rượu, múa hát đánh chiêng vui vẻ.
Từ sáng sớm của ngày bắt đầu lễ hội, tất cả các gia đình trong làng đều phải đóng kín cửa, không ai được phép ra vào, cơm và các loại thức ăn được nấu sẵn và để lên giàn bếp, rượu ghè cũng được các gia đình chuẩn bị đầy đủ. Già làng là người đầu tiên được phép mở của và đi một mình đến nhà Rông. Sau đó, già làng đánh một hồi trống báo hiệu cho tất cả nam giới trong làng mang lễ vật như: Heo, gà, cá suối, rượu ghè tập trung về nhà Rông. Lễ vật được bày tại cột chính giữa nhà Rông.
Sau lời khấn của già làng: “Ơ Giàng, ơ Thần lúa, hôm nay hồn lúa về với làng chúng tôi, chúng tôi cầu mong thần lúa cho chúng tôi sang năm mới và mãi mãi đừng thiếu lúa để ăn, dân làng không phải đói, xin hồn lúa hãy ở với chúng tôi, cho chúng tôi được no đủ”, già làng ăn cơm mới và uống rượu làm phép, các thành viên trong làng lần lượt uống rượu và ăn cơm mới. Uống rượu ở nhà Rông xong, già làng đưa tất cả mọi người ở nhà Rông lần lượt đi đến từng gia đình trong làng đến mỗi nhà, các gia đình mang cơm rượu, thức ăn ra tiếp đoàn. Già làng làm phép và sau đó mọi người cùng ăn cơm, uống rượu tượng trưng, rồi lại tiếp tục đi đến nhà khác.
Khi đã đi đến tất cả các gia đình trong làng, đoàn lại quay lại nhà Rông, và lúc này tất cả các lễ vật được đưa ra vị trí cây nêu trước nhà Rông. Già làng thông báo cho tất cả các thành viên trong làng tập trung về nhà Rông để mở hội “Ăn mừng lúa mới”. Rượu ghè và thức ăn từ mỗi gia đình được lần lượt mang tới nhà Rông, cả cộng đồng cùng uống rượu, múa hát, đánh cồng chiêng. Đồng bào cứ thế vui hội cho đến khi lửa đã tàn, rượu đã nhạt, mọi người tạm nghỉ, lễ hội chính “mừng lúa mới” của người Xơ Đăng xem như kết thúc đồng bào lại cùng hẹn nhau mùa tới sẽ no đủ hơn, sung túc hơn.
Lễ hội đường phố (lễ hội cồng chiêng) Kon Tum là nơi hội tụ đồng bào các dân tộc 5 tỉnh Tây Nguyên (Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng) được tổ chức ngày 19-03-2016 tại thành phố Kon Tum tỉnh Kon Tum, lễ hội được tổ chức luân phiên trên 5 tỉnh Tây Nguyên, mỗi năm 1 tỉnh
Đây là một trong những sự kiện trọng điểm của Liên hoan nghệ thuật dân gian Tây Nguyên đang diễn ra ở Kon Tum (kéo dài từ ngày 18/3-23/3). Tham gia lễ hội có hơn 500 nghệ nhân, nghệ sĩ quần chúng ở 14 đoàn (trong đó có 10 đoàn đến từ các huyện, thành phố của Kon Tum và 4 đoàn đại diện cho các tỉnh ở Tây Nguyên Việt Nam.
Với những người dân sinh sống và làm việc tại thành phố Kon Tum - nơi diễn ra lễ hội đường phố thì đây có lẽ là dịp may mắn để họ được trở về với những nét văn hóa xa xưa của từng dân tộc. Những nhạc cụ, những điệu múa, những tiết tấu cồng, chiêng cùng những trang phục văn hóa đại diện cho từng nhóm dân tộc là điểm nhấn cho lễ hội đường phố năm nay. Trên mỗi đoạn đường có đoàn nghệ nhân đi qua, hàng nghìn người dân chen kín hai bên đường để cùng nhau thưởng lãm.
Hòa trong không khí lễ hội đường phố ấn tượng này, người dân và du khách có cơ hội trải nghiệm không khí lễ hội của đồng bào các dân tộc tại chỗ ở Tây Nguyên. Đồng thời, tìm hiểu văn hóa truyền thống bản địa của đồng bào ở các tỉnh Tây Nguyên qua các nhạc cụ truyền thống, các trò chơi dân gian... được các nghệ nhân, nghệ sĩ quần chúng trình diễn trong suốt hành trình của lễ hội.
Trong âm vang cồng chiêng - linh hồn của nền văn hóa truyền thống giàu bản sắc của đồng bào các dân tộc ở “miền mơ tưởng”, các đoàn nghệ nhân, nghệ sĩ của đồng bào các dân tộc Bana, Gia Rai, Giẻ Triêng, Xơ Đăng... ở 5 tỉnh Tây Nguyên diễu hành qua các tuyến phố trong sắc phục truyền thống của dân tộc mình.
Lễ hội đâm trâu được người Bana gọi là x'trǎng, là một lễ hội tế thần linh, ăn mừng chiến thắng, mừng mùa màng bội thu, mừng lễ hội mùa xuân hay mừng các sự kiện trọng đại trong năm. Tuỳ theo hoàn cảnh ở từng địa phương mà bà con tổ chức lễ đâm trâu.
Lễ đâm trâu thường được tổ chức vào khoảng thời gian từ tháng Chạp cho đến tháng 3 âm lịch. Đó là là khi mùa màng thu hoạch xong, thóc đã được đưa vào bồ, các gia đình được nghỉ ngơi. Người Bana tổ chức lễ đâm trâu là để tạ ơn thần linh, đón mừng năm mới, cầu mong sức khỏe cho mọi người và cầu chúc cho một năm mới mùa màng tươi tốt.
“Lễ hội đâm trâu là lễ hội lớn linh thiêng đối với người Bana. Lễ hội đâm trâu (còn gọi là lễ hiến sinh) phải trải qua nhiều nghi lễ nhỏ với nhiều hình thức như: lễ cúng thần linh, nghi lễ uống rượu cần, diễn tấu cồng chiêng và có bài khóc trâu. Lễ hội đâm trâu chỉ được dùng trong cúng thần linh”.
Lễ đâm trâu thường diễn ra trong 3 ngày đêm. Để chuẩn bị cho lễ đâm trâu, người Bana phải chuẩn bị hàng tháng trời. Những người đàn ông khoẻ mạnh trong buôn được cử vào rừng chọn những cây gỗ Pơlang thẳng, đẹp nhất để làm cột Gưn, chọn những cây mây vàng bóng để bện thành sợi dây vững chãi buộc trâu trong ngày lễ. Thường thì lễ đâm trâu tế Giàng (Thần linh) được tổ chức vào sáng sớm, lúc mặt trời vừa lên. Dân làng chọn một con trâu khỏe mạnh làm vật hiến sinh, con trâu này được coi như vị sứ giả chuyển lời cầu khấn, ý nguyện của bà con tới các vị thần. Vào ngày lễ, trâu được đưa đi tắm rửa sạch sẽ và cho ăn uống no nê rồi đem buộc bằng dây mây vào cột Gưn mà người Ba Na gọi cây cột này là gưng sakapô. Đây là một cây cột gỗ cao trên 5 mét, được trang trí hoa văn, hoa rừng và cờ rất đẹp. Trên đỉnh cột thường đặt một biểu trưng hình chim Phượng hoàng bằng gỗ. Khi con trâu được cột vào Gưng, làng cử đại diện gồm: già làng, thanh niên nam, nữ, trẻ nhỏ dắt trâu đi vòng quanh cột vừa đi vừa nói những điều tốt đẹp. Đây cũng là lúc bà con trong buôn tập trung lại và những nghi thức của buổi lễ bắt đầu.
Chủ lễ là già làng, người có uy tín nhất cộng đồng đọc lời khấn trời đất, cầu chúc mưa thuận gió hòa, dân làng khỏe mạnh, hoa trái mùa màng tốt tươi… Khấn Giàng xong, con trai, con gái nhảy múa vòng tròn theo nhịp cồng chiêng rộn rã, âm vang khắp núi rừng. Một người lớn tuổi được cử ra để mời bà con và khách uống rượu cần thể hiện lòng hiếu khách. Tâm điểm của lễ hội là các chàng trai trong buôn biểu diễn các màn võ truyền thống quanh cột Gưn buộc trâu, trong khi các cô gái nối thành vòng xoang nhảy múa theo nhịp cồng chiêng. Sau một đêm nhảy múa, ca hát, buôn cử 5 người đại diện gồm 3 thày cúng và 2 già làng làm lễ hiến sinh đọc thần chú, xin dâng cúng trâu cho thần linh và cầu nguyện những điều tốt đẹp còn mọi người ngồi nói chuyện, uống rượu cần.
Suốt đêm hôm ấy bà con dân làng thức với con trâu, khóc thương con trâu, bày tỏ tình cảm của mình với con trâu bằng bài hát "Khóc trâu". Bài hát với lời : lâu nay trâu sống cùng với con người, giúp đỡ người trong công việc đồng áng nặng nhọc, nhưng vì làng có việc trọng đại, cần đến trâu để tạ ơn Giàng, mong trâu vui vẻ thực hiện nhiệm vụ của mình. Sau buổi lễ, thịt trâu được chia đều cho tất cả mọi người, từ già đến trẻ nhỏ trong buôn và cả khách mời, ai cũng có phần đem về nhà, mang may mắn cho mọi người. Già làng Bok Ny dân tộc Bana ở tỉnh Kon tum, cho biết: “Lễ hội để cầu mong mưa thuận gió hoà. Sau khi lễ hội xong cũng là là kêu gọi bà con phát huy tính tự lực tự cường, cùng nhau làm ăn cần cù để cuộc sống buôn làn ngày càng phát triển đi lên”.
Lễ đâm trâu của người Bana cũng là dịp để con cháu ôn lại truyền thống hào hùng của dân tộc, giúp lớp trẻ hình dung các bước thực hiện lễ đâm trâu để lưu giữ truyền thống tổ tiên. Lễ hội đâm trâu góp phần giữ gìn nét văn hóa dân gian của người Bana, làm phong phú thêm sắc thái văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Lễ bỏ mả hay còn gọi là lễ Pơ thi. Đây là lễ hội lớn của người Jrai và Bahnar. Người Jrai và Bahnar cũng như một số tộc người khác ở Tây Nguyên tin rằng, sau khi chết, linh hồn sẽ về thế giới bên kia sống với tổ tiên. Nhưng linh hồn của người chết không đi hẳn, không sống hẳn với thế giới bên kia, mà sau một thời gian sẽ trở lại- tái sinh làm người bằng cách nhập vào thể xác của những đứa trẻ. Chính do quan niệm như vậy nên họ có cách ứng xử riêng với người chết, và có tục làm lễ bỏ mả để tiễn đưa linh hồn người chết ra đi
Chỉ sau lễ bỏ mả đó, linh hồn người chết mới hoàn toàn tách khỏi mọi ràng buộc với cuộc sống, mới thực sự về với cội nguồn của mình, còn người sống thì được giải phóng khỏi mọi liên hệ với người chết
Lễ bỏ mả là một trong những lễ hội mang sắc thái văn hóa độc đáo nhất của người Tây Nguyên, là cả một truyền thống ứng xử đầy tính nhân văn của người sống đối với người chết. Tiếng cồng chiêng trầm hùng, những điệu múa trang trọng lưu luyến, những ngôi nhà mồ uy nghi, những pho tượng mồ trầm tư đầy gợi cảm, những bữa ăn cộng cảm với những món ăn truyền thống, những bài cúng lâm ly tràn đầy chất văn nghệ dân gian… tạo nên bức tranh văn hóa sống động của lễ hội bỏ mả, góp phần cùng với những lễ hội khác tô điểm cho bức tranh văn hóa Tây Nguyên giàu bản sắc, vô cùng độc đáo, hấp dẫn, lôi cuốn một cách kỳ lạ.
V. Những món ngon không thể bỏ qua khi đi du lịch ở Kon Tum
Bún đỏ cao nguyên là một trong những món ăn ngon tại Kon Tum mà bạn không nên bỏ lỡ. Khác với những món bún như bún bò, bún chả cá, hay bún mắm,… bún đỏ cao nguyên đơn giản hơn từ cách chế biến đến cách thưởng thức.
Nguyên liệu chính của món bún đỏ cao nguyên chính là cua đồng, một ít chả viên cùng trứng cút luộc. Tuy là món đơn giản nhưng lại đòi hỏi sự khéo léo mới có thể làm nên một tô bún đỏ cao nguyên hấp dẫn từ màu sắc cho đến mùi vị.
Bún đỏ cao nguyên ấn tượng ngay từ đầu với màu hơi đỏ của hạt điều, rồi màu đỏ au bắt mắt của từng miếng cà chua, đặt cạnh màu xanh tươi non của đĩa rau sống, hay màu nâu của chả cá, của riêu cua, màu trắng của trứng cút luộc. Tất cả hòa hợp làm nên một tô bún ngon từ ánh mắt!
Nếu nhìn qua nhiều người sẽ lầm tưởng món bún đỏ cao nguyên là bún riêu, hay canh bún được bày bán ở nhiều phố thị. Nhưng điểm khác của bún đỏ cao nguyên chính là ăn kèm với rau cần đước, với giá cùng mỡ hành, mỡ tóp, và trứng cút luộc.
Về Kon Tum du khách có thể tìm bún đỏ cao nguyên ở một nhà hàng sang hoặc một chiếc xe đẩy, một đôi quang gánh. Và lúc nào những nơi có bún đỏ cao nguyên cũng tấp nập người vào ra thưởng thức. Họ thường tìm đến những quán bún đỏ cao nguyên những buổi chiều trời se se lạnh, vừa xì xụp húp, vừa đón nhận cái không khí ở nơi cao nguyên này.
Quả đúng như tên gọi, món gỏi lá này toàn… lá. Chỉ một món ăn mà bày kín mâm, bởi gỏi lá “đúng chất” có tới 40-50 loại, từ các loại rau quen thuộc như: lá cải, tía tô, đinh lăng, lá sung, lá mơ, hành, rau húng… đến các loại lá ít xuất hiện trong bữa ăn như: lá xoài, lá ổi, lá chua, lá chùm ruột, ngũ gia bì… và rất nhiều loại lá là riêng biệt của Tây Nguyên mà nhiều người chưa biết hết tên.
Giữa “mâm lá” là đĩa thức ăn ăn kèm. Thịt ba chỉ luộc, thái mỏng sao cho mỡ và thịt vừa đủ, không quá ngấy. Vài lát cá chép, tôm luộc, bì lợn. Đặc biệt có thêm đĩa tiêu nguyên hạt, muối hạt. Thứ đặc biệt và kỳ công nhất của món gỏi lá này là nước chấm được là từ gạo nếp, tôm khô, thịt ba chỉ, mẻ, sa tế.
Thưởng thức món này cũng cần có kiểu cách, không vội vã “vơ” hết các lá mà phải theo đúng quy trình. Trước tiên, lấy lá cải hoặc lá mơ làm lá cuốn, sau đó cho thêm lá chua và vài lá khác tùy lựa chọn của người ăn, cuốn thành cái phễu nhỏ, bỏ miếng thịt ba chỉ, tôm, bì lợn… vào trong “phễu”, nhất định phải cho thêm hạt tiêu và hạt muối, một chút nước chấm. Mỗi lần cuốn lá là những loại lá khác nhau, tạo nên những hương vị khác nhau, khi thì chua chua lá xoài, khi thì bùi bùi lá sung, chan chát lá ổi.
Nếu bạn có dịp đi du lịch Kon Tum, khám phá ẩm thực địa phương thì đừng bỏ qua một lần nếm thử rượu ghè. Rượu ghè là thức uống đặc biệt của những đồng bào dân tộc ở miền núi này. Chất men cay tự nhiên này trở thành hương vị không thể thiếu trong nhiều lễ hội của họ và trở thành “đặc sản” của riêng những du khách miền xuôi khi ngược lên nơi này du ngoạn.
Nguyên liệu chính của rượu ghè được làm từ gạo nếp hoặc sắn, và một loại men đặc biệt được làm từ nhiều lá cây rừng, được ủ kín trong một thời gian dài để lúc mang ra cho từng vị ngọt lịm.
Người ta cho rằng, rượu ghè có một hương vị rất riêng mà không loại rượu nào có được, bởi loại men ủ rượu được làm từ nhiều loại rễ cây, lá cây mà người dân tộc nơi đây tìm trong rừng sâu. Loại men đặc biệt đó khi ủ lên tạo nên hương vị rất riêng, hương vị của đại ngàn. Ngày nay, rượu ghè được chế biến bởi nhiều loại men chợ, tuy cũng vị ngọt nhưng mất hẳn chất đại ngàn như trước. Với đồng bào dân tộc nơi đây, để làm nên một hũ rượu ghè đặc trưng thì phải đủ trên 20 loại lá, rễ cây rừng.
Sau khi đem những lá, rễ cây đặc biệt trên về họ sẽ giã nhuyễn, đem trộn với nhau để tạo vị ngọt, sau đó phơi khô để khi dùng chỉ cần bóp tơi. Mỗi lần nấu chỉ việc lấy men này đem rắc đều chiếc ghè có sẵn gạo, ngô… theo một tỉ lệ thích hợp, sau đó bịt kín bằng lá chuối, ủ quá 15 ngày là dùng được. Và đặc biệt, rượu ghè ủ càng lâu hương vị càng thơm nồng nàn.
Rượu ghè trở thành một đặc sản Kon Tum làm quà nói riêng và đặc sản của Tây Nguyên nói chung. Người ta bảo nếu lên đây mà chưa thưởng thức rượu ghè thì xem như niềm vui giảm nửa. Bởi qua cách uống, qua hương vị ẩn giấu phía sau loại rượu này là cả một nét văn hóa đặc trưng lâu đời của đồng bào dân tộc, sẽ khiến người thưởng thức như cảm nhận nhiều hơn và thêm yêu thương hơn vùng Tây Nguyên gió lộng này.
Heo quay chắc chắn không còn xa lạ gì với nhiều người. Nhưng nếu như có dịp du lịch Kon Tum thì du khách cũng nên thưởng thức món heo Măng Đen quay này dù chỉ 1 lần. Bởi, heo quay ở đây đều là những chú heo rẫy loại nhỏ, con to nhất cũng chỉ khoảng 20kg, đều được nuôi thả tự nhiên. Cho nên, thịt heo Măng Đen đều rất thơm và chắc, không hề bị bở và đặc biệt đây là thịt sạch, không lo bị bơm thuốc tăng trọng.
Đến với vùng đất Kon Tum, nếu may mắn thì bạn sẽ được thử món heo rừng được người dân bản địa đặt bẫy trong rẫy, hoặc thậm chí là heo rừng nhà nuôi. Heo rừng Măng Đen có lớp da rất cứng. Ngày trước người ta thường bỏ da heo rừng. Nhưng giờ nó lại chính là đặc sản đấy!
Hương vị đặc trưng của heo Măng Đen quay
Heo Măng Đen sau khi giết thịt rồi sẽ được sơ chế qua một cách sạch sẽ. Nội tạng heo sẽ được đem đi tẩm ướp các loại gia vị rồi được chế biến thành đa dạng các món ăn mới lạ và đặc biệt. Phần còn lại sẽ được để nguyên con và quay chín trên bếp than hồng. Những miếng thịt heo Măng Đen vàng ươm và bóng nhẫy sẽ khiến bất cứ ai khó lòng mà cưỡng lại được.
Khi đặt chân tới Măng Đen, du khách sẽ được thưởng thức món heo quay của người dân bản địa. Loại heo này sống ở điều kiện khí hậu núi rừng, trời lạnh thì chắc chắn sẽ ngon hơn heo ở miền xuôi. Đặc biệt là nên giết heo khi vừa trưởng thành, tức là nặng tầm 15 – 20kg. Heo Măng Đen sẽ được quay nguyên con bằng lửa than hồng. Heo sẽ được quay cho tới khi da cang vàng giòn rộm và tỏa ra mùi thơm phức đặc trưng. Chỉ cắn một miếng nhẹ thôi, mỡ chảy tuôn ra kích thích vị giác thật là đã! Ăn mỗi miếng thịt heo Măng Đen quay đều sẽ cảm nhận được độ giòn tan và béo ngậy của da, mềm và ngọt của thịt.
Cá chua là một món ăn để dự trữ của người dân vùng núi ở Kon Tum. Cách chế biến món ăn dân dã này khá dễ dàng, đầu tiên người dân sẽ chọn loại cá niệng đặc trưng, đây là một loại cá giống cá trôi có rất nhiều ở sông suối Tây Nguyên.
Những con cá niệng sau khi đánh hết vẩy, lấy ruột bỏ, rửa sạch mang, cắt thành từng khúc nhỏ chừng 2 đến 3 cm rồi để cho ráo nước. Khi cá đã khô nước sẽ được trộn cùng muối, lá bép, ớt, thính ngô. Tiếp tục đưa cá vào từng ống lồ ô khô, sạch rồi nút hai đầu thật kín rồi để lên gác bếp, đợi vài ngày là có món cá chua độc đáo.
Trong ăn uống ở Kon Tum, với nhiều người, cá chua là một món ăn độc đáo, dẫn dã và điều đặc biệt là để càng lâu thì từng miếng cá lại càng thấm gia vị, nên khi nếm một miếng cá chua thực khách sẽ thấm được vị mặn của muối, vị cay của từng trái ớt rừng, vị ngọt dịu nhẹ của lá bép, cùng với hương thính ngô thơm lừng sau khi lên men cho vị chua độc lạ. Tất cả làm nên một món cá chua có một không hai, một hương vị rất riêng của vùng núi Tây Nguyên.
Cá gỏi kiến vàng là một đặc sản của dân tộc Rơ Măm ở Huyện Sa Thầy – Kon Tum. Đến với Kon Tum thì bạn đừng bỏ qua món đặc sản này nhé. Đối với người dân tộc Rơ Măm thì nguyên liệu chủ yếu của món ăn này đó là cá suối và kiến vàng. Đối với cá, người ta sẽ đến những con suối để bắt cá, với thịt cá tươi ngon, thịt chắc, vảy đều… sau đó hòa quyện với nguyên liệu là kiến vàng. Đối với kiến vàng, người ta vào rừng và kiếm những tổ kiến to, có khối lượng trứng lớn. Khi có 2 nguyên liệu này rồi thì kết hợp lại để làm món Cá gỏi kiến vàng.
Cách làm món kiến Cá gỏi kiến vàng
Khi cá được bắt về, làm sạch cá và băm nhuyễn, và vắt cho cạn hết nước để tránh mùi tanh. Còn đối với kiến vàng thì chọn ổ kiến còn non, và trứng nữa đem về giã nhỏ ra. Lấy gia vị nhưu muối hột, ớt xanh, tiêu rừng trộn cá với kiến lại với nhau và thêm chút thính gạo bột gạo rang cháy xém để dậy lên mùi thơm. Khi ăn món gỏi cá kiến vàng thì nên dùng lá sung cuốn món gỏi lại vừa miệng. Kết hợp vị béo của kiến non, vị cay xé lưỡi cảu tiêu, ớt tạo nên hương vị khó quên.
Đặc sản Kon Tum vô cùng phong phú và đa dạng, đến những con dế mà chúng ta thấy thường ngày cũng có thế trở thành một món đặc sản được. Món ăn này đối với những người đến từ Đồng Bằng thì nó lại là món ăn kỳ lạ. Nhưng đối với đồng bào dân tộc thiểu số Kon Tum thì những món ăn như thế này lại rất quen thuộc như bao ngày. Có rất nhiều loại dễ như dễ lửa, dễ cơm, dế than…nhưng nguyên liệu để làm dế chiên Kon Tum đó là dế cơm, chỉ có loại dế này thì món dế chiên mới ngon được.
Muốn có một dĩa dế chiên thì không phải dễ. Đầu tiên những con dế được bắt về phải rửa sạch, để cho ráo nước rồi cho vào chảo nóng với dầu đang sôi rồi chiên lên. Sau khi dế thầm dầu rồi, chúng ta lấy gia vị như ớt, muối, lá chanh, sả, tỏi vào chiên chung. Phải trộn thật đều để những gia vị này thấm vào dế. Khi cho các gia vị vào phải rang thật nhanh để lá chanh không bị mất đi màu xanh.Sau khi làm xong, tắt lửa đem xuống thưởng thức nhé.
Cà đắng là một trong những món ngon Tây Nguyên nói chung và là đặc sản Kon Tum nói riêng. Nguyên liệu này thường mọc nhiều ở những ngọn đồi, ven sông, bờ suối của Kon Tum. Trước đây, cà thường mọc hoang dại, nhưng nhờ được phát hiện nên cà đắng đã được đưa về nương trồng, để tiện làm món ăn.
Đặc sản này có vị thơm ngon đặc biệt, cà được cắt thành những lát mỏng, xiên que và đặt lên nướng. Khi màu của cà chuyển sang màu nâu đậm, dậy mùi thơm và vừa chín tới thì có thể đem xuống ăn. Nước đắng bên trong cà vẫn còn, hơi dai dai, mềm mềm, chấm với muối tiêu rừng hoặc ăn kèm với thịt rừng nướng rất ngon.
Không khác gì món cà đắng của đặc sản Đăk Lăk. Cà đắng Kon Tum có thể kết hợp với với tôm, tép bắt được dưới sông để làm món kho. Hoặc cà đắng có thể um với lươn, ếch…món nào cũng ngon, cũng có mùi thơm rất dễ chịu. Đã gọi là cà đắng thì thì khi ăn, lúc đầu vị lưỡi luôn có vị đắng, nhưng khi kiên nhẫn ngồi ăn thì mới cảm nhận vị ngọt thấm xuống cổ của loại quả này.
Xôi măng là món ăn dân dã của đồng bao dân tộc Kon Tum vào mối buổi sáng, nguyên liệu để chế biến món ăn này đó là gạo nếp và măng rừng. Măng tươi sau khi được hái trên rừng về, lột vỏ ngoài rồi rửa sạch và thái nhỏ sao cho vừa miệng ăn.
Tiếp đó thì phải đun sôi với nước sôi để mùi ngái có rong măng biến mất, sau đó đem ra để cho ráo nước rồi đem xào với gia vị để tạo ra món măng ngon và thơm. Tiếp đó, chọn gạo nếp để làm xôi, trước đó cần lấy gạo nếp ngâm trong nước muối loang có thêm bột nghệ để lên màu chừng 8 tiếng thì mang ra đồ chín
Cá tầm nấu măng là một món ăn nổi tiếng ở Kon Tum, đây là món ăn rất phù hợp cho những ngày đông, rét buốt ở Kon Tum. Ở Kon Tum có nhiều hồ nước mát lạnh quanh năm, chính vì thế đây là nơi trú ngụ của rất nhiều cá tầm. Cá tầm là loại cá xương sụn, toàn bộ hệ thống xương của cá cũng như đầu cá đều cấu tạo từ sụn, thịt cá tầm trắng, dai, có vị béo ngậy, thành phần dinh dưỡng cao, dễ hấp thụ.
Nếu bạn đi du lịch ở Kon Tum vào màu lạnh thì ăn món Cá tầm nấu măng thì phù hợp hết chê. Cá tầm được bắt lên còn tươi rói, người ta sẽ chế biến bằng cách làm sạch, tẩm ướp gia vị từ cho thấm cá tầm.
Sau đó, bắt chảo lên bếp rồi cho dầu vào cho nóng rồi phi hành vào cho thơm, rồi cho hỗn hợp nguyên liệu như cà chua, thơm, và măng chua vào. Sau đó cho ít nước vào rồi đun sôi cho chín đều hỗn hợp nguyên liệu, rồi cho cấ tầm vào, tiếp tục đun sôi cho cá chín, khi kiếm tra cá chín rồi thì cho ít hành lá thái nhuyễn vào. Sau đó đem xuống thưởng thức.
VI. Ở đâu khi đi du lịch Kon Tum
Địa chỉ: 06 Đoàn Thị Điểm, phường Quyết Thắng, Thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum.
Với sân hiên, Window Hotel ở thành phố Kon Tum nằm trong bán kính 900 m từ Tòa Giám mục Kontum. Khách sạn 2 sao này có Wi-Fi miễn phí, lễ tân làm việc 24 giờ và bếp chung. Mỗi phòng nghỉ đều có TV truyền hình cáp màn hình phẳng. Các phòng nghỉ được trang bị bàn làm việc và tủ quần áo. Với một phòng tắm riêng được trang bị bồn rửa vệ sinh và đồ vệ sinh cá nhân miễn phí, một số phòng tại Window Hotel cũng có tầm nhìn ra quang cảnh thành phố.
Địa chỉ: 30 Bạch Đằng, phường Quyết Thắng, Thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum.
Khách sạn Indochine đạt tiêu chuẩn quốc tế 3 sao, 8 tầng gồm 75 phòng được trang bị đầy đủ các tiện nghi sang trọng và cao cấp. Nội thất ấm cúng, trang nhã cùng các dịch vụ phong phú chất lượng cao sẵn sàng phục vụ Quý khách.
Khách sạn tọa lạc tại một vị thế lý tưởng, phía trước là dòng sông Đăkbla êm ả và thơ mộng. Đứng trên tầng cao, bạn có thể nhìn bao quát toàn thành phố và cảm nhận hết vẻ đẹp của thành phố Kontum. Quý Khách sẽ mất 50 phút đi ô tô từ sân bay Pleiku – Gia Lai đến khách sạn Indochine Kon Tum
Địa chỉ: 155 Bắc Cạn, Thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum.
Khách sạn Konklor được thiết kế và xây dựng dựa trên sự kết hợp giữa hiện đại và những nét truyền thống, đậm chất Tây Nguyên. Trong các phòng nghỉ được cung cấp đầy đủ các tiện ích cơ bản như: Tivi, tủ lạnh, điều hòa… thêm vào đó là những vật dụng trang trí trong phòng đều là những sản phẩm thủ công do chính người bản địa ở đây làm nhìn khá bắt mắt. Trong khách sạn có tích hợp dịch vụ ăn uống, tại đây bạn có thể thưởng thức những món ăn hấp dẫn và ngon miệng. Đội ngũ nhân viên của khách sạn khá trẻ nên rất nhiệt tình và thân thiện nếu cần giúp đỡ bạn có thể liên hệ với quầy lễ tân.
4. Hnam Chang Ngeh Hospitality Training Center
Địa chỉ: 16A Nguyễn Trãi, phường Thống Nhất, Thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum.
Tọa lạc tại vị trí trung tâm trong thành phố, Hnam Chang Ngeh Hospitality Training Center cung cấp dịch vụ lưu trú chất lượng với giá cả phải chăng. Các phòng nghỉ ở đây được thiết kế khá đẹp với chất liệu chủ yếu làm từ gỗ khá sang trọng và hiện đại. Với những tiện nghi được cung cấp sẵn trong mỗi phòng sẽ đem lại cho bạn cảm giác thoải mái khi ở tại đây. Trong nhà hàng của khách sạn bạn có thể thưởng thức rất nhiều món ăn hấp dẫn từ các món đặc sản Việt Nam cho đến các món Âu độc đáo, mới lạ.
5. Khách sạn Tây Nguyên Kon Tum
Địa chỉ: 225 Trần Hưng Đạo, Thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum.
Khách sạn Tây Nguyên là một trong những điểm dừng chân lý tưởng được rất nhiều du khách yêu thích khi đến Kon Tum. Khách sạn này cung cấp 29 phòng nghỉ không gian phòng bài trí khá đơn giản nhưng vẫn đầy đủ tiện nghi sẽ đem lại cho bạn cảm giác thoải mái, ấm cúng như ở nhà. Nhân viên trong khách sạn phục vụ chuyên nghiệp, nhiệt tình, chu đáo. Đây còn là nơi bạn có thể tổ chức những buổi tiệc, buổi họp lớn.
La Maison homestay là ngôi nhà nhỏ nằm trong khu biệt thự nghỉ dưỡng. Chỉ Cách hồ Đắk Kekhoảng 400m và nằm ở vị trí trung tâm của các khu du lịch nổi tiếng của Măng Đen như Thác Pa Sỹ, Khu nông nghiệp 37 hộ, Tượng Đức Mẹ Măng Đen, Làng Kon Pring,... chính vì vậy mà nhà là nơi tuyệt vời cho những bạn muốn tản bộ, thưởng thức không khí trong lành và thuận tiện cho việc di chuyển đến các địa điểm tham quan.
Nhà có hai phòng đơn (phòng dành cho hai người) và phòng dorm (6 giường), mỗi phòng đều được thiết kế hướng về tự nhiên, có cửa sổ và ban công để tận hưởng không khí bên ngoài. Không gian chung gồm bếp, phòng khách và sân vườn được chăm chút từng góc nhỏ với hy vọng sẽ tạo cho mọi người cảm giác thoải mái như chính trong ngôi nhà của mình.
Địa chỉ: Quốc lộ 24, Đăk Long, Kon Plong
Rất hiếm có căn biệt thự nào ở Măng Đen được chăm chút cẩn thận, kỹ càng, cây cối xanh tươi, trăm hoa đua nở như Le Plateau Hostel Măng Đen. Đến Le Plateau Măng Đen, điều đầu tiên bạn cảm nhận được là sự sạch sẽ và ấm áp. Ở đây có đầy đủ những gì mà bạn cần cho một nơi lưu trú tiện nghi. Chưa hết, với sự hiếu khách và nhiệt tình của nhân viên tại Le Plateau sẽ giúp bạn cảm thấy ở đây như ngôi nhà thứ 2 của mình.
Địa chỉ: Đắk Long, Măng Đen, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum
Sum Villa homestay Măng Đen là một trong những homestay đầu tiên tại Măng Đen. Nó khá dễ thương và sạch sẽ với khu vườn sau rộng rãi thoáng mát. Mình đặc biệt thích khu vườn sau với những cây thông cao lớn, một nơi có nhiều bàn ghế gỗ và cây cối xung quanh
Sum Villa homestay ở Măng Đen là căn villa có kiến trúc đẹp, sân vườn rộng rãi thích hợp sống ảo. Hay đặc biệt đây là nơi tổ chức tiệc BBQ đầy hấp dẫn cho khách đông người.
Một căn biệt thự nhỏ với kiến trúc khá dễ nhìn. Đặc biệt cây xung phủ khắp nơi khiến trông nó rất tuyệt để ở. Phía trước nhà là một biển hiệu nhỏ bằng gỗ đề Sum Villa. Theo được biết tên căn hộ được lấy từ biệt danh là Sum của anh chủ nhà. Hai vợ chồng trẻ với những hoài bão nhỏ mở homestay ở Măng Đen. Bên trong được thiết kế với phòng khách, phòng bếp, nhà vệ sinh và cả những căn phòng dễ chịu dành cho khách ở. Ở đây có nhiều loại phòng khác nhau như phòng dorm, phòng riêng. Với nhiều giá cả khác nhau để bạn có nhiều lựa chọn.
VII. Mua gì về làm quà khi đi du lịch Kon Tum
Nếu Đà Lạt nổi tiếng với loại rượu vang nho thì du lịch Kon Tum lại nổi tiếng với rượu vang sim. Khí hậu tại vùng miền núi Kon Tum đã mang lại cho vùng đất này những trái sim rừng căng mọng và tươi mát. Những đồi sim rừng bạt ngàn là nguồn nguyên liệu chính để sản xuất loại rượu vang sim, trở thành loại đặc sản tại Kon Tum để làm quà độc đáo.
Những quả sim vốn chỉ mọc dại trên rừng, sau khi có được công nghệ chế biến rượu hiện đại của nước Pháp, dòng đời của nó đã thay đổi hoàn toàn. Từ những quả sim rừng dân dã, trở thành loại rượu vang thơm ngon và sang trọng. Sự thay đổi này dẫn đến những sự thay đổi to lớn khác. cuộc sống của những người dân sống tại Kon Tum trở nên tốt hơn nhiều khi biến sim rừng trở thành loại rượu nổi tiếng, là thứ đặc sản Kon Tum mà mọi du khách đều dùng làm quà sau những chuyến du lịch Kon Tum.
Khi nhắc đến Phú Quốc, người ta nhớ đến nước mắm cũng như cao lầu khi nhớ về Hội An. Đối với Kon Tum, thứ đặc sản phải nhắc đến khi nói về vùng đất đại ngàn này là sâm Ngọc Linh. Đây là thứ đặc sản Kon Tum làm quà cực kỳ phù hợp, nhất là với những người lớn tuổi.
Sâm được trồng tại vùng núi Ngọc Linh. Khu vực này có khí hậu mát mẻ, phù hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của cây. Bởi lẽ đó mà sâm Ngọc Linh có chất lượng hơn hẳn nhiều loại sâm trong nước và cả sâm của đất nước Hàn Quốc nổi tiếng. Tên gọi khác của loại sâm quý giá này là Hồng Đảng Sâm. Với củ to, ngắn, vỏ cứng và sậm màu, sâm Ngọc Linh mang lại rất nhiều công dụng. Vừa giúp cải thiện giấc ngủ, tăng cảm giác ngon miệng, tăng cường sức khỏe và đề kháng. Đây sẽ là món quà Kon Tum quý báu cho sức khỏe của những người mà bạn thương yêu.
Nếu bạn có dịp đi du lịch Kon Tum, khám phá ẩm thực địa phương thì đừng bỏ qua một lần nếm thử rượu ghè. Rượu ghè là thức uống đặc biệt của những đồng bào dân tộc ở miền núi này. Chất men cay tự nhiên này trở thành hương vị không thể thiếu trong nhiều lễ hội của họ và trở thành “đặc sản” của riêng những du khách miền xuôi khi ngược lên nơi này du ngoạn.
Nguyên liệu chính của rượu ghè được làm từ gạo nếp hoặc sắn, và một loại men đặc biệt được làm từ nhiều lá cây rừng, được ủ kín trong một thời gian dài để lúc mang ra cho từng vị ngọt lịm.
Rượu ghè trở thành một đặc sản Kon Tum làm quà nói riêng và đặc sản của Tây Nguyên nói chung. Người ta bảo nếu lên đây mà chưa thưởng thức rượu ghè thì xem như niềm vui giảm nửa. Bởi qua cách uống, qua hương vị ẩn giấu phía sau loại rượu này là cả một nét văn hóa đặc trưng lâu đời của đồng bào dân tộc, sẽ khiến người thưởng thức như cảm nhận nhiều hơn và thêm yêu thương hơn vùng Tây Nguyên gió lộng này.
Một món đặc sản Kon Tum để làm quà khác cho bạn lựa chọn đó là chuối ép khô. Đây không chỉ là món quà Kon Tum được nhiều du khách lựa chọn mà còn là món ăn vặt được nhiều người dân Kon Tum yêu thích.
Từ nguồn nguyên liệu chuối sứ phổ biến của nông nghiệp Kon Tum. Những người dân Kon Tum đầy sáng tạo đã cho ra đời món đặc sảnđộc đáo này. Những quả chuối chín bùi được lựa chọn kỹ càng, qua quá trình chế biến hiện đại đã trở thành món chuối sấy ngon lành. Chuối sấy đặc sản Kon Tum có nhiều hương vị khác nhau cho bạn lựa chọn. Từ chuối sấy giòn tẩm đường, chuối xắt tẩm mật ong cho đến chuối sấy mật ong gừng, chuối sấy nguyên trái. Tất cả đều giữ được hương chuối thơm ngọt hòa cùng những loại gia vị khác, trở thành món đặc sản của Kon Tum làm quà độc đáo không thể bỏ qua.
Khi đến với du lịch Kon Tum, các bạn cũng không thể bỏ qua măng le, thứ đặc sản mang hương sắc núi rừng Kon Tum. Lại một lần nữa, Kon Tum được ưu đãi với khí hậu ôn hòa nên cho ra đời những loại măng thơm ngon. Dùng măng le làm quà cho gia đình và bạn bè sau chuyến du lịch Kon Tum là một lựa chọn cực kỳ lý tưởng.
Món đặc sản tại Kon Tum để làm quà tươi ngon này được những người đồng bào sinh sống tại Kon Tum dành nhiều công sức đi lấy về. Sau khi chế biến, phơi khô, món măng le Kon Tum trở thành món đặc sản Kon Tum để du khách dễ dàng mang về làm quà. Món măng le đặc sản Kon Tum dù đã được sấy khô nhưng vẫn có thể chế biến thành nhiều món ăn hấp dẫn khác nhau như măng tươi.
VIII. Thời gian lý tưởng để tham quan du lịch Kon Tum
Khí hậu Kon Tum là sự giao thoa giữa kiểu khí hậu của vùng nhiệt đới gió mùa và khí hậu của vùng cao nguyên. Nhiệt độ trung bình mỗi năm tầm 22-23 độ C nên sẽ không nóng bức như một số tỉnh của miền Trung, ngược lại Kon Tum sẽ có phân chia thành 2 kiểu khí hậu khá là đặc biệt. Một số các huyện ở khu vực miền núi phía Bắc như Kon Plon, Đak Glei, Tu Mơ Rông sẽ có khí hậu ôn hòa, mát mẻ quanh năm. Ngược lại, các khu vực thấp hơn như huyện Ia H’Drai và TP. Kon Tum sẽ bức và oi ả hơn.
Du lịch Kon Tum nhớ để ý về đặc điểm từng mùa để biết nên đi vào tháng mấy, vì ở Kon Tum mùa mưa rơi vào tháng 4-11, mùa khô từ tháng 12 – tháng 3 năm sau. Tất nhiên, theo kinh nghiệm du lịch Kon Tum đi vào mùa khô sẽ thuận tiện cho các hoạt động tham quan, trekking hay đi các khu du lịch hơn. Đặc biệt, nếu đi Kon Tum vào tầm tháng 11, 12 này sẽ rất tuyệt vì đây là thời điểm hoa dã quỳ nở rộ cùng rất nhiều các lễ hội đặc sắc.
IX. Lưu ý khi đi du lịch Kon Tum
Theo kinh nghiệm du lịch Kon Tum, các bạn nên lưu ý một số điều khi du lịch đến Kon Tum:
- Nếu các bạn phượt bằng xe máy hoặc xe oto nhà thì nên chuẩn bị cho xe kĩ càng, cũng nên mang theo một số dụng cụ y tế và thuốc thông dụng.
- Nên mang theo tiền mặt vì tại Kon Tum hầu như không có ATM.
- Mang theo kem chống nắng và chống muỗi sẽ không dư thừa.
- Và đặc biệt: Đừng quên mang theo máy ảnh hay điện thoại để lưu lại những khoảnh khắc tuyệt vời.
X. Một số tour du lịch Kon Tum cho du khách tham khảo
Tour du lịch Buôn Mê – Gia Lai – Kon Tum 3 Ngày 3 Đêm